Sunday, March 30, 2014

Đô thị cổ Hội An di sản văn hóa thế giới

Hôi An là một địa điểm du lịch của cả nước.Đến với phố cổ Hội An du khách sẽ biết đến quá trình phát triển của Hội An những ngôi nhà ở phố cổ này được xây dựng và bố trí khá độc đáo với đường nét nghệ thuật các ngôi nhà cổ tồn tại từ lâu đời rất cổ kính.Hãy đặt vé máy bay tp hồ chí minh đi chu lai giá rẻ để tìm hiểu nét cổ kính của khu phố cổ này nhé.


Đô thị cổ Hội An cách thành phố Đà Nẵng hoảng 25  về phía   Km về phía đông-nam, nằm trên bờ bắc Sài Giang (còn Giang (còn gọi là sông Chợ Củi-vùng hạ lưu sông Thu Bồn), nơi nhiều con sông lớn của Quảng Nam hội tụ và đổ ra biển Đông ở Cửa Đại. Vùng đất này có nhiều bến sông, là nơi thuận tiện vận chuyển và tập trung các loại sản vật của đất Quảng để trao đổi, buôn bán với các nơi khác bằng đường thuỷ. Theo các nhà khảo cổ học, cách nay khoảng 2000 năm đã có một cảng thị sơ khai ở vùng đất Hội An, nhiều di vật được tìm thấy trong các mộ chum và khu cư trú cổ của người Sa Huỳnh, cho thấy dân cư ở đây đã có quan hệ mua bán trao đổi với các nơi khác trong vùng Đông Nam Á từ lâu đời. Dần dần cảng thị này phát triển thành Đại Chiêm Hải Khẩu dưới thời vương quốc Champa, kết quả khảo sát, khai quật khảo cổ học cho thấy dấu vết các bến thuyền của Chiêm cảng xưa còn để lại ở hai bên bờ hạ lưu sông Thu Bồn.

Năm 1570, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Quảng Nam, đã tích cực khai phá vùng đất Đàng Trong, xây dựng làng xóm, phát triển nông - thương nghiệp. Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cải cách xã hội, tăng cường việc mua bán với các nước, chuẩn bị lực lượng để đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong các thế kỷ XVI-XVII là thời kỳ ở vùng Đông Nam Á có nhiều chuyển biến quan trọng, chính sách ngoại thương của Trung Hoa và Nhật Bản đã ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của vùng này, Hội An cũng chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên ngoài đó.


Nếu căn cứ vào những đồng tiền Ngũ Thù, Vương mãn và một số di vật khác mang yếu tố Trung Hoa được tìm thấy trong các mộ chum ở Hậu Xá và An Bang (1), thì có lẽ người Hoa đã có quan hệ mua bán với những cư dân Sa Huỳnh ở Hội An cách nay khoảng 2.000 năm. Thời kỳ vùng đất này còn thuộc vương quốc Champa, Đại Chiêm Hải Khẩu đã đón tiếp các thương thuyền Trung Hoa vào buôn bán, trao đổi các sản vật, họ thường mua tơ lụa, trầm hương, quế, tiêu..., hoặc lấy thêm lương thực, nước ngọt để đi tiếp đến các nước khác ở Nam Á. Thế nhưng vào giai đoạn trước thế kỷ XVII, người Hoa chỉ dừng chân mua bán chứ không lưu trú, lập nhà phố ở Hội An.

Năm 1649, ở Trung Quốc nhà Thanh diệt nhà Minh, lập ra triều Mãn Thanh, đã dẫn đến sự di cư ồ ạt của người Hoa xuống vùng Đông Nam Á, nhiều người đã định cư ở Hội An.
Vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, thương truyền Nhật Bản đã đến buôn bán với Đàng Trong, nhiều thương gia Nhật mở thương quán ở Hội An để buôn bán giao dịch, một số người còn lấy vợ Việt, tuy nhiên thời gian cư trú của người Nhật ở Hội An chỉ kéo dài đến nửa cuối thế kỷ XVII, hầu hết phải trở về Nhật Bản vì chính sách đóng cửa của Nhật Hoàng thời bấy giờ.
Thương thuyền của các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... cũng cập bến buôn bán ở Hội An.

Nhờ vị trí thuận tiện trên đường hàng hải, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, chính sách mở cửa của các chúa Nguyễn, sự có mặt của các thương nhân ngoại quốc, nhất là những thương gia Nhật Bản và Trung Hoa định cư ở đây, khiến Hội An trở thành một đô thị - thương cảng quan trọng nhất của xứ Đàng Trong.
Đến đầu thế kỷ XIX, Hội An vẫn còn là nơi buôn bán tấp nập, sách Quốc Triều chánh biên của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi: "...Cửa Đại Chiêm thuyền bè xum họp, chợ phố Hội An hàng hóa nhóm đầy, thực là nơi đô hội lớn..."(1).
Cuối thế kỷ XIX, sông Thu Bồn đổi dòng ở vùng cửa sông, Cửa Đại bị phù sa bồi lấp, làm cho thuyền bè đi lại khó khăn, trong khi đó Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, thương thuyền nước ngoài chỉ vào cửa Hàn, từ đó công việc buôn bán ở Hội An dần dần sa sút.

Hơn 3 thế kỷ tụ cư ở Hội An, dấu ấn của văn minh Trung Hoa để lại ở đây khá rõ nét, về tín ngưỡng, có tục lệ thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quang Thánh Đế Quân, Thập Nhị Tiên Nương, Thái Thượng Lão Quân, Thần Phục Ba... nhiều công trình kiến trúc được làm theo phong cách Trung Hoa, thậm chí có những bộ phận kiến trúc được chở từ Trung Quốc sang, các đề tài trang trí điêu khắc như Thập Bát La Hán, Bát Tiên, cuốn thư, bát bửu, mặt hổ phù, dơi, chữ thọ...
Sự hiện diện của người Nhật Bản ở Hội An thật rõ ràng, nhưng cho đến nay, chưa thể xác định vị trí cũng như quy mô của "phố Nhật", bởi lẽ, ngoài những mộ người Nhật nằm ở vùng ven thị xã, và Chùa Cầu, còn gọi là cầu Nhật Bản, những kiến trúc mang phong cách Nhật Bản quá mờ nhạt. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng khu phố Nhật xưa kia nằm trên đường Trần Phú. Theo Chihara Daigoro thì những ngôi nhà Nhật Bản ở Hội An vẽ trong "Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ" cùng một dạng với kiến trúc cùng thời tại Nagasaki

Nếu so sánh với một số đô thị và thương cảng cổ của Việt Nam, thì Hội An không phải là cổ xưa nhất, về quy mô cũng không phải là lớn nhất, thời gian thịnh đạt của nó chỉ khoảng hơn 2 thế kỷ, nhưng trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa, Hội An đã hình thành một sắc thái riêng: vừa có những nét chung của một đô thị - thương cảng cổ Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt độc đáo, thể hiện qua phong tục tập quán, kiến trúc điêu khắc. Đặc biệt là dù trải qua bao biến đổi của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, vẫn không làm mất đi dáng vẻ của một đô thị - thương cảng cổ, vẫn còn đó những bến tàu, đình, chùa, hội quán, nhà ở...hợp thành một quần thể kiến trúc cổ tương đối nguyên vẹn ở Hội An.
Nhà ở: Trong các loại hình kiến trúc tại Hội An, trước hết phải nói đến nhà ở, là những đơn vị cơ bản để hình thành một đô thị. Có 2 dạng nhà phổ biến là "Nhà Phố" và "Nhà Rường".
Nhà Phố: Nằm san sát nhau thành từng dãy dài, chiều ngang mỗi ngôi nhà chỉ 5-6m, nhưng chiều sâu có thể lên đến 30-40m, phần lớn những ngôi nhà này phân bố ở các trục đường Trần Phú, Nguyễn Thái học, Bạch Đằng, Nguyễn Thị Minh Khai,...hình thành nên khu phố cổ.
Mặt bằng Nhà phố được chia thành 2 phần: phía trước dùng làm nơi buôn bán, giao dịch, phía sau là nơi ở và kho chứa hàng, sân sau có cổng thông ra ngoài . Kết cấu nhà khung gỗ, có từ 2 đến 4 gian, bộ vì kèo thông thường theo kiểu "chồng rường giả thủ" và "cột trốn kẽ chuyền", mái lợp ngói âm dương, tường được xây bằng gạch nhưng ở 2 bên tường vẫn có vách gỗ. Nhà xây cao nhất là 2 tầng hoặc một tầng có gác lửng, cửa ra vào các ngôi nhà cổ ở Hội An đều có gắn bộ phận "Mắt cửa", đó là phần chốt gỗ được chạm trổ những hình Bát quái; hoa 8 cánh có nhụy là vòng tròn lưỡng nghi..."Mắt cửa" là một nét độc đáo của nghệ thuật Hội An.

Nhà rường: phân bố rải rác ở các vùng lân cận khu phố cổ (ở các xã Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm Hà...), về mặt bằng, kết cấu bộ khung gỗ giống như các ngôi nhà cổ truyền khác của Việt Nam. Nhà 3 gian 2 chái hoặc 1 gian 2 chái, phía trước là sân rộng, xung quanh có vườn cây.
Nhà thờ tộc: có mặt bằng hình chữ nhật, với 3 gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái. Bộ khung gỗ của ngôi nhà kết cấu kiểu nhà rường, vì kèo chủ yếu là "cột trốn kẽ chuyền" có nơi kết hợp thêm "chồng rường giả thủ". Tuy về kết cấu và mặt bằng giống như nhà để ở, nhưng nội thất nhà thờ tộc bài trí bàn thờ ở cả 3 gian chính. Trong số các nhà thờ tộc ở Hội An có thể kể đến nhà thờ tộc Nguyễn ở Cẩm Hà, tộc Trần Thanh ở Cẩm phô, tộc Trần ở đường Lê Lợi, tộc Trương ở đường Phan Châu Trinh, tộc Phạm ở đường Trần Phú...Các nhà thờ tộc ở Hội An đều có nguồn gốc xây dựng từ lâu đời, nhưng qua nhiều lần tu sửa hoặc xây lại, các công trình tồn tại đến nay có niên đại khoảng thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX.

Phố cổ Hội An được nhiều du khách biết đến đây là một trong những địa điểm du lịch thu hút nhiều khách nước ngoài nhất của cả nước.Với nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng như Chùa Cầu,Chùa Viên Gác,Văn Thánh Miếu.Đây chính là địa điểm du lịch hấp dẫn của du khách.gày 04/12/1999 Đô thị cổ Hội An được UNESCO công nhận là DI SẢN VĂN HOÁ THẾ GIỚI.
nguồn:http://www.toibay.vn/ve-may-bay-noi-dia/ve-may-bay-di-chu-lai-1968.html

0 comments:

Post a Comment